Ta có thể chia làm 2 nhóm chính
Nhóm 1: Gồm những file khi tạo máy ảo ra là có (luôn có)
Nhóm 2: Khi sử dụng các tính năng thì mới xuất hiện.
Do khi tạo máy ảo, hệ thống phát sinh nhiều file nên sẽ chứa trong 1 thư mục có cùng tên với máy ảo và là tên duy nhất trên hệ thống.
Nhóm 1: gồm các file
<VM-Name>.vmx: file chứa cấu hình máy ảo (ram, cpu, bao nhiêu card mạng, địa chỉ MAC ,vv.v). Đây là file quan trọng trong quá trình vận hành (quan trọng nhất).
<VM-Name>.nvram: chứa các cấu hình BIOS của máy ảo.
Vmware.log: file log, lưu thông tin, quá trình vận hành của máy ảo (edit cấu hình v.v.).
<VM-Name>.vmdk: file ổ cứng (cái này ta tự tao, nhưng cũng có thể coi như nhóm 1). Mỗi một ổ cứng, hệ thống tạo ra 2 file: <VM-Name>.vmdk và <VM-Name>-flat.vmdk. <VM-Name>-flat.vmdk lưu thông tin ổ cứng ảo (dung lượng, loại ổ cứng (thick hay thin…) v.v).
Nhóm 2:
<VM-Name>.vswp: swap file.
Vậy khi nào xuất hiện file này ??
Khi một máy ảo tạo ra, hệ thống cấp tài nguyên vật lý cho máy ảo chạy. Như đã biết, ta có thể tạo lượng tổng RAM của các máy ảo lớn hơn lương Ram vật lý ( 10 gb vẫn tạo được 4 máy 4GB). Nhưng những lúc các máy ảo hoạt động tối da, máy nào cũng cần 4GB thì làm sao đủ mà cung cấp ??. Lúc này , Vmware dự phòng bằng cách dùng Ram ảo (swap file) cho mỗi máy ảo. Dung lượng lớn nhất của swap file bằng với lượng Ram mà ta đã set cho máy ảo (swap file chỉ xuất hiện khi máy ảo power on + thiếu RAM).
Suspend State file: <VM-Name>.vmss
Ta đã biết trên Windows, khi muốn tắt máy ta có 2 chế độ Shutdown (close hết ứng dụng, giải phóng hết bộ nhớ). Hybernate( tắt máy , lưu trạng thái của Ram vào ổ cứng).
Thì trên Vmware cũng như vậy, Suspend cũng giống như Hybernate, Vmware lưu trạng thái của máy ảo trong <VM-Name>.vmss. File này co khi ta suspend máy ảo, dung lượng của nó bằng với dung lượng RAM.
Snapshot file: lưu trạng thái máy ảo (lưu lại bộ file) ở từng thời điểm. Ta có thể restore lại máy ảo về đúng trạng thái đã snapshot.
Dùng để test các tính năng, phần mềm, bản vá lỗi
Bộ file gồm
Snapshot disk file (delta disk file): vmdk. Chứa trạng thái của ổ cứng khi snapshop. Có nhiều file vmdk, mỗi vmdk sẽ đại diện cho từng thời điểm snapshot.
Snapshot Data file: chứa danh sách những lần snapshot, lần snapshot nào thì dùng vmdk nào.
Snapshot state file: File chứa trang thái RAM của máy ảo. Nếu ko co file này, chúng ta chỉ có thể revert trạng thái máy đã tắt. Nếu có những file này, máy ảo sẽ được khôi phục đúng nguyên trạng (ứng dụng, tiến trình đang chạy), hãy tưởng tượng giống như là hypernate vậy đó.
Raw device map (RDM) file: Thông thường, ổ cứng ảo là 1 file image. Chúng ta sẽ chứa dữ liệu trong virtual disk. Nếu ta muốn chứa trực tiếp trong Lun (SAN) thì dùng Raw Device Mapping File. Nó giúp LUN (SAN) kết nối trực tiếp đến máy ảo (ta sẽ đề cập ở những bài sau). RDM cũng có file mở rộng vmdk. Nhưng vmdk ở đây rất nhẹ (chỉ vài chuc kb). Vmdk sẽ tiệp nhận lệnh đọc, ghi từ virtual machine để chuyển đến RDM ( nói la trực tiếp nhưng vẫn qua vmdk)
0 Nhận xét